Vàng quỳ hay
vàng lá là
vàng nguyên chất hoặc
hợp kim vàng (pha lẫn với
bạc,
đồng,
platin v.v.) với hàm lượng vàng cao, được dát mỏng bằng đập búa, hiện nay thường với độ dày khoảng 0,1
µm,
[1][2] – nghĩa là bằng độ dày của vài trăm nguyên tử vàng (nguyên tử vàng có bán kính theo các tính toán khác nhau trong khoảng 135-174
pm),
[3][4] nhưng trong thời cổ đại có thể dày gấp khoảng 10-30 lần và trong thời Trung cổ có thể dày gấp 5-10 lần như thế. Nó thường được sử dụng trong
thếp vàng.
[5] Vàng quỳ sẵn có với nhiều loại
kara và sắc thái. Loại vàng được sử dụng phổ biến nhất là vàng 22 kara (91,7%
Au).Vàng quỳ là một loại
lá kim loại, nhưng thuật ngữ này hiếm khi sử dụng khi nói tới các quỳ vàng mà thường được dùng để chỉ các phiến/lá vàng có độ dày trên 10 µm.
[2] Thuật ngữ lá kim loại nói chung thường được sử dụng cho các phiến mỏng của kim loại với bất kỳ màu nào nhưng không chứa vàng thật sự. Vàng tinh khiết là vàng 24 kara. Vàng quỳ thật sự và có màu vàng thông thường chứa xấp xỉ 91,7% vàng (22 kara). Trong thực tế, người ta có thể sản xuất vàng quỳ với hàm lượng vàng trong nguyên liệu đầu vào từ 25% (6 kara) trở lên,
[6] và màu sắc của chúng thay đổi từ vàng ánh lục tới vàng và vàng ánh đỏ trong ánh sáng chiếu tới. Tại Trung Quốc người ta gọi là "cửu xích bát hoàng thất thanh", (nghĩa là vàng quỳ chứa trên 90% Au có màu vàng thiên về ánh đỏ, chứa từ 80% tới 90% Au có màu vàng và từ 70% tới 80% Au có màu vàng thiên về ánh xanh). Trong ánh sáng trắng chiếu từ nền thì vàng quỳ có màu lam ánh lục.
Vàng trắng màu trắng bạc chứa khoảng 50% vàng tinh khiết.Sắp đặt và dán vàng quỳ thành lớp trên một mặt phẳng được gọi là
thếp vàng. Thếp vàng bằng nước theo truyền thống là khó nhất và được đánh giá cao trong các kiểu thếp vàng. Cách thếp vàng theo kiểu này hầu như không thay đổi màu sắc sau nhiều trăm năm và hiện nay vẫn được làm thủ công.